1. Voi ma mút
Nhân viên bảo tàng kiểm tra một bản sao của một voi ma mút lông mịn.
Voi ma mút là một chi voi cổ đại đã bị tuyệt chủng. Tồn tại ở thế Pliocen, vào khoảng 4,8 triệu năm đến 4.500 năm trước. Có đặc điểm lông dài (xấp xỉ 50 cm), rậm (hơn so với voi hiện tại), ngà dài và cong (hóa thạch ở Xibia có ngà dài 3,5 m).
Răng voi ma mút rất dài, cong quặp vào trong, dài nhất tới 5 cm, chân sau ngắn nên trọng tâm toàn thân nghiêng về phía sau, vai nhô cao.
Voi ma mút
Chân chỉ có 4 ngón (kém 1 ngón so với voi hiện nay), da dày. Voi ma mút có răng lớn, sắc cạnh, thích hợp cho nghiền nát cỏ.
Vòi của voi ma mút có hai chỗ lồi giống như ngón tay, một ở phía trước và một ở phía sau, giúp chúng dễ dàng túm lấy cỏ. Da màu đen, nâu và nâu đỏ, lông vàng, cao từ 3 đến 3,3 m.
2. Chó sói Tasmania hay Hổ Tasmania
Chó sói Tasmania, hay còn gọi là hổ Tasmania, chó sói túi (tên khoa học: Thylacinus cynocephalus) là một loài thú ăn thịt có túi, bề ngoài giống như chó hoặc chó sói, với những sọc vằn trên lưng giống như loài hổ với hình dạng đầu chó mình hổ.
Sinh vật này xuất hiện đầu tiên ở Úc và Papua New Guinea, nhưng khoảng 2.000-200 năm trước, chúng biến mất trên đại lục Australia, và chỉ còn tìm thấy ở đảo Tasmania, miền nam Úc.
Chó sói Tasmania, hay còn gọi là hổ Tasmania xuất hiện đầu tiên ở Úc và Papua New Guinea, nhưng khoảng 2.000-200 năm trước, chúng biến mất trên đại lục Australia
Đây là loài thú có cú ngoạm mạnh gấp ba lần một con chó với cân nặng tương đương, những con vật nhỏ hơn lại có cú cắn mạnh hơn con lớn.
Bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, chính phủ Tasmania trả tiền thưởng cho xác Chó sói Tasmania, như các động vật được cho là con mồi trên cừu và gia cầm của nông dân.
Các cá thể cuối cùng được biết đến qua đời trong một vườn thú ở Tasmania vào năm 1936.
Các loài thú có túi bị săn đuổi đến tuyệt chủng do những năm 1930. Các cá thể cuối cùng được biết đến qua đời trong một vườn thú ở Tasmania vào năm 1936.
3. Bồ câu rừng
Cá thể bồ câu rừng cuối cùng đã chết tại vườn thú Cincinnati vào năm 1914.
Việc săn bắn và phá rừng đã dẫn đến sự tuyệt chủng của loài bồ câu rừng cách đây 100 năm. Con chim bồ câu rừng cuối cùng tên Martha đã chết tại vườn thú Cincinnati vào năm 1914.
4. Ếch Rheobatrachus vitellinus và ếch R. silus
Ếch Rheobatrachus vitellinus và ếch R. silus đều bị tuyệt chủng vào giữa những năm 1980.
Ếch Rheobatrachus vitellinus và ếch R. silus. Cả hai loài này đều bị tuyệt chủng vào giữa những năm 1980.
Sau khi trứng được thụ tinh, con cái sẽ nuốt chúng. Nòng nọc sẽ phát triển trong dạ dày của ếch mẹ trong ít nhất sáu tuần. Trong khoảng thời gian đó, ếch mẹ sẽ không ăn bất cứ thứ gì cho đến khi ếch con được sinh ra và bắt đầu sinh trưởng ở vùng nước nông.
5. Vẹt đuôi dài Carolina
Vẹt đuôi dài Carolina là một loài chim tuyệt chủng trong họ Vẹt.
Vẹt đuôi dài Carolina (tên khoa học Conuropsis carolinensis) là một loài chim tuyệt chủng trong họ Vẹt. Đây là loài vẹt duy nhất bản địa miền đông Hoa Kỳ.
Nó từng được tìm thấy từ miền nam Tiểu bang New York và Wisconsin tới vịnh Mexico, và nó sống trong các khu rừng già ven sông.
Nó là loài duy nhất được phân loại trong chi Conuropsis. Nó được gọi puzzi la neé ("đầu vàng") hoặc pot pot chee bởi người Seminole và kelinky trong tiếng Chickasaw.
6. Mèo răng kiếm
Những con mèo răng kiếm đã bị tuyệt chủng vào khoảng 11.000 năm trước đây.
Mèo răng kiếm, là một chi động vật đã tuyệt chủng thuộc phân họ mèo răng kiếm Machairodontinae, sống vào khoảng 2,5 triệu năm cho tới 10.000 năm trước đây ở Bắc và Nam Mỹ. Chúng được gọi là “răng kiếm” nhờ vào những chiếc răng nanh hàm trên cực kỳ dài của chúng.
Mèo răng kiếm có khối lượng khoảng 350 kg và có đuôi ngắn, các chân to khỏe và đầu to. Với kích thước cỡ như hổ Siberia, Mèo răng kiếm rất khỏe. Các quai hàm của chúng có thể mở ra một góc 95 độ. Các răng nanh của chúng dài khoảng 17 cm (7 inch).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét